“Hôm nay, chúng ta có thể tự hào kết luận rằng quá trình này đã gửi đi một thông điệp mạnh mẽ đến cộng đồng quốc tế, rằng việc hội nhập kinh tế và hợp tác quốc tế là công cụ tốt nhất để tạo ra cơ hội và thịnh vượng”, Tổng thống Chile - Michelle Bachelet cho biết trong lễ ký vào hôm 08/03/2018.
Mở ra cơ hội mới cho Việt Nam
Sau
nhiều nỗ lực, 11 nước tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã thống nhất nội dung đàm phán. Trên cơ
sở đó, các nước đã tiến hành rà soát pháp lý, hoàn tất các thủ tục nội
bộ để ký kết vào hôm nay (8/3) tại Chile. Hiệp định Đối tác toàn diện và
tiến bộ xuyên Thái Bình Dương được ký kết và sớm có hiệu lực là cơ hội
nhưng cũng là thách thức cho Việt Nam.
Là
người gắn bó với Hiệp định TPP trước đây và hiện nay là CPTPP, chuyên
gia kinh tế, TS Võ Trí Thành - Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Việt Nam về Hợp
tác kinh tế Thái Bình Dương - đánh giá: 11 nước trong CPTPP đều cam kết
sẽ có những nỗ lực hết sức mình để đưa Hiệp định CPTPP vào hiện thực,
sau khi ký kết, nhiều khả năng cuối năm 2018 hoặc chậm nhất là đầu năm
2019, Hiệp định CPTPP sẽ có hiệu lực.
“Đây
có thể nói là kết quả đáng mừng, đáng kỳ vọng vì trong bối cảnh hiện
nay, chủ nghĩa bảo hộ, dân túy, dân tộc cực đoan đang trỗi dậy đang làm
chậm lại tiến trình liên kết, hội nhập và tự do hóa thương mại, đầu
tư,…”
Ông
cho biết thêm, Hiệp định CPTPP sẽ như một sự kế tục của TPP trước đây
với 12 nước, trong đó có Mỹ tham gia đã khẳng định, có rất nhiều nước
vẫn nhận định quá trình toàn cầu hóa, hội nhập là không thể đảo ngược.
Điều này đem lại lợi ích to lớn cho các nước tham gia cũng như cho toàn
thế giới. Hiệp định CPTPP trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tiếp
tục khẳng định khu vực này phải là ngọn cờ đầu, là người đi tiên phong
trong quá trình liên kết, hội nhập và tự do hóa thương mại, đầu tư.
Hiệp
định CPTPP là hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, tiểu chuẩn
cao và toàn diện. Hiệp định này không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền
thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch
vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại,...mà còn
xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi trường, mua
sắm của Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước,...
Ngoài
ra, Hiệp định này đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa
cũng như đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc và chặt
chẽ. Riêng về mở cửa thị trường, các nước tham gia Hiệp định đồng ý xóa
bỏ cho nhau gần như toàn bộ thuế nhập khẩu theo lộ trình; tự do hóa dịch
vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm sự
quản lý của Nhà nước, từ đó tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh
nghiệp và lợi ích mới cho người tiêu dùng của các nước thành viên, trong
đó có Việt Nam.
Sức ép lên nền kinh tế, doanh nghiệp và người lao động
Bộ
trưởng Bộ Công Thương - ông Trần Tuấn Anh khẳng định, Hiệp định CPTPP
mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt là các lợi ích
chưa thể tính toán được đến từ quá trình thúc đẩy cải cách thể chế.
Hiệp định CPTPP tạo ra sự thúc ép rất lớn về cạnh tranh cho cả DN lẫn
nền kinh tế, là điều kiện để Việt Nam có tăng trưởng bền vững hơn.
Còn
theo TS Trần Toàn Thắng - Trưởng ban Kinh tế Thế giới (Trung tâm Thông
tin và Dự báo Kinh tế xã hội quốc gia - Bộ KHĐT) - Hiệp định CPTPP vẫn
tạo sức ép cải cách thể chế mạnh mẽ lên Việt Nam. Hiệp định CPTPP có
những điều khoản trực tiếp yêu cầu Việt Nam phải thay đổi luật lệ, quy
tắc. Bởi vậy, muốn tận dụng được lợi ích và hạn chế tác động tiêu cực
thì Việt Nam phải tự nâng được năng lực canh tranh của mình lên.
Chuyên
gia kinh tế - PGS-TS Ngô Trí Long, khẳng định: Về bản chất, CPTTP dựa
trên cơ sở của Hiệp định TTP, được bổ sung thêm sở hữu trí tuệ và mua
sắm tài sản công, quyền người lao động, doanh nghiệp Nhà nước. Những vấn
đề này không phải là mới, chúng ta cũng đã nhận dạng được nó và có
những động thái để DNNN hoạt động trong môi trường cạnh tranh.
Thách
thức lớn nhất của kinh tế Việt Nam là năng lực cạnh tranh. Trong từng
lĩnh vực, đều cần tìm ra những lợi thế để tận dụng và những khó khăn để
tìm giải pháp. Cụ thể, trong lĩnh vực nông nghiệp, rào cản kỹ thuật là
lớn nhất, trong đó yêu cầu về vấn đề an toàn thực phẩm; vấn đề năng
suất, chất lượng sản phẩm…
Để
khắc phục những khó khăn này, chúng ta phải tập trung tái cơ cấu ngành,
tập trung cải tạo khâu giống, đòi hỏi sự gắn bó của “5 nhà”, đồng thời
có thể vươn ra thị trường nước ngoài. Trong kinh tế vĩ mô, áp lực rất
lớn là phải cải cách thể chế. Để hội nhập được thì thể chế phải phù hợp:
Kinh tế vĩ mô ổn định, luật pháp phải phù hợp với thông lệ quốc tế,
không thể “một mình một chợ” được: Các văn bản, nghị định về chính sách
quản lý tiền tệ hay quản lý kinh doanh vàng cũng như quản lý về từng
lĩnh vực một, đều phải phù hợp với thông lệ quốc tế.
Như
vậy, Việt Nam sẽ phải mở cửa chào đón hàng hóa, dịch vụ của các nước
đối tác tại thị trường trong nước, đồng nghĩa với việc DN Việt Nam phải
cạnh tranh gay gắt hơn tại “sân nhà”. Những hạn chế trong năng lực cạnh
tranh quốc gia có thể là nhân tố cản trở Việt Nam khai thác những cơ hội
mà CPTPP mang lại.
Cùng
với đó, sức ép cạnh tranh đối với các DN Việt Nam sẽ tăng lên và nguy
cơ thất bại của các DN trên chính thị trường nội địa nếu không nhanh
chóng và quyết liệt thay đổi cung cách làm ăn. Không chỉ đối với các mặt
hàng nông sản, các DN dệt may của Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ có
thể phải bán lại thương hiệu cho công ty nước ngoài, hoặc phải đi gia
công cho các thương hiệu và phân phối ngay trong thị trường nước nhà.
Đặc biệt, các DN phải chứng minh nguồn gốc xuất xứ.
Còn
TS Nguyễn Trí Hiếu cho rằng: Lực lượng lao động của Việt Nam cần thúc
đẩy trong việc đào tạo các kỹ năng, đặc biệt khi đi vào giai đoạn Cách
mạng Công nghiệp 4.0 về công nghệ thông tin. Đây là thời đại mới, cần
phải đào tạo lại lao động để có kỹ năng về công nghệ thông tin. Tất cả
mọi lĩnh vực, trước hết bắt đầu từ luật pháp, rồi cơ chế về thuế, về tổ
chức, về kinh doanh, lao động, tất cả những quy định về luật pháp, những
cơ chế liên quan đến những khâu đó cũng phải được thay đổi và đặc biệt
nữa là chất lượng hàng hóa Việt Nam phải được nâng cấp.
Nhiều
chuyên gia cũng cho rằng, khó khăn lớn nhất là khả năng thích ứng của
Việt Nam còn kém so với tiêu chuẩn đặt ra. Ví dụ như, Việt Nam có công
nghệ lạc hậu hơn. Tổ chức về mặt sản xuất, kiểm soát thị trường của Việt
Nam cũng chưa theo kịp các nước cùng tham gia hiệp định,…cùng hàng loạt
chính sách cần xây dựng và hoàn thiện.
Theo báo Người Lao Động
Xem thêm: Dầu gạo và trái tim khỏe